Tỷ lệ thụ tinh là gì? Các công bố khoa học về Tỷ lệ thụ tinh

Tỷ lệ thụ tinh là tỷ lệ thành công trong việc phôi thai được gắn kết vào tử cung trong quá trình thụ tinh. Tỷ lệ này thường được tính dựa trên số lần thụ tinh t...

Tỷ lệ thụ tinh là tỷ lệ thành công trong việc phôi thai được gắn kết vào tử cung trong quá trình thụ tinh. Tỷ lệ này thường được tính dựa trên số lần thụ tinh thành công so với số lần thử nghiệm, và được tính phần trăm. Tỷ lệ thụ tinh có thể khác nhau đối với các phương pháp thụ tinh khác nhau, tuỳ thuộc vào tình trạng sức khỏe của người phụ nữ và người đàn ông, mức độ vận động của tinh trùng, chất lượng trứng, và các yếu tố khác.
Tỷ lệ thụ tinh thường được tính dựa trên số lần phôi thai thành công so với số lần phôi thai đã được thử nghiệm. Đối với các cặp vợ chồng thường có khả năng thụ tinh tự nhiên, tỷ lệ thụ tinh được ước tính trong khoảng 20-30% mỗi tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.

Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh bao gồm:

1. Chất lượng trứng: Chất lượng trứng là yếu tố quan trọng trong quá trình thụ tinh. Những người phụ nữ có số lượng và chất lượng trứng tốt có khả năng cao hơn trong việc thụ tinh.

2. Chất lượng tinh trùng: Chất lượng tinh trùng cũng đóng vai trò quan trọng. Tinh trùng phải có khả năng di chuyển và kích thích phôi thai. Những người đàn ông có số lượng và chất lượng tinh trùng tốt có tỷ lệ thụ tinh cao hơn.

3. Tuổi: Tuổi cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh. Phụ nữ dưới 35 tuổi thường có tỷ lệ thụ tinh cao hơn so với phụ nữ trên 35 tuổi. Đối với nam giới, tuổi cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng.

4. Các vấn đề y tế: Các vấn đề y tế, chẳng hạn như rối loạn nội tiết, vấn đề tự miễn dịch, tiền sử phẫu thuật hoặc chất lượng tinh trùng kém có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh.

5. Phương pháp thụ tinh: Phương pháp thụ tinh cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh. Các phương pháp như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có tỷ lệ thụ tinh cao hơn so với thụ tinh tự nhiên.

Tỷ lệ thụ tinh có thể được cải thiện thông qua việc điều trị các vấn đề y tế liên quan, ăn uống và sinh hoạt lành mạnh, giảm stress, và sử dụng các phương pháp thụ tinh hiện đại.
Tỷ lệ thụ tinh được tính dựa trên số lần phôi thai thành công so với số lần phôi thai đã được thử nghiệm. Có một số phương pháp và quy trình thụ tinh khác nhau, và tỷ lệ thụ tinh có thể khác nhau tuỳ thuộc vào phương pháp sử dụng.

1. Thụ tinh tự nhiên (Natural conception): Đây là việc thụ tinh xảy ra tự nhiên thông qua quan hệ tình dục trong thời gian rụng trứng. Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh tự nhiên thường khá thấp, chỉ khoảng 20-30% mỗi tháng.

2. Thụ tinh trong tử cung (Intrauterine insemination - IUI): Đây là phương pháp đưa tinh trùng đã được xử lý vào tử cung của phụ nữ. Tỷ lệ thụ tinh trong IUI được ước tính trung bình từ 10-20% mỗi lần thử nghiệm.

3. Thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF): Đây là quy trình làm phôi thai ngoài cơ thể bằng cách kết hợp trứng và tinh trùng trong ống nghiệm và sau đó ghép phôi thai vào tử cung. Tỷ lệ thụ tinh trong IVF thường cao hơn so với các phương pháp khác và có thể đạt từ 30-40% hoặc thậm chí cao hơn, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi, chất lượng trứng, chất lượng tinh trùng và phương pháp sử dụng.

4. Thụ tinh nhân tạo (Artificial insemination - AI): Đây là quy trình đưa tinh trùng vào tử cung của phụ nữ bằng cách sử dụng công cụ hoặc thiết bị. Tỷ lệ thụ tinh trong AI cũng thấp và dao động từ 10-20% trong mỗi lần thử nghiệm.

Ngoài các phương pháp thụ tinh trên, còn có các phương pháp kéo dài mạch máu tử cung (Embryo Transfer - ET) và sử dụng nguồn tế bào phôi thai từ vòng tròn La to (Zona pellucida) như ICSI (Intracytoplasmic Sperm Injection). Tỷ lệ thụ tinh trong các phương pháp này cũng cao và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng phôi thai và độ chuyên nghiệp của các bác sĩ.

Tỷ lệ thụ tinh có thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng cặp vợ chồng và từng trường hợp cụ thể. Điều quan trọng là tham khảo các chuyên gia y tế hoặc bác sĩ của bạn để biết rõ hơn về tỷ lệ thụ tinh trong trường hợp bạn đang quan tâm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tỷ lệ thụ tinh":

MolProbity: xác thực cấu trúc toàn nguyên tử cho tinh thể học đại phân tử Dịch bởi AI
International Union of Crystallography (IUCr) - Tập 66 Số 1 - Trang 12-21 - 2010

MolProbity là một dịch vụ web xác thực cấu trúc cung cấp đánh giá chất lượng mô hình dựa trên nhiều tiêu chí chắc chắn ở cả cấp độ toàn cục và cục bộ cho cả protein và axit nucleic. Nó phụ thuộc nhiều vào sức mạnh và độ nhạy được cung cấp bởi việc đặt hydro tối ưu và phân tích tiếp xúc toàn nguyên tử, bổ sung bởi các phiên bản cập nhật của hình học cộng hóa trị và tiêu chí góc xoay. Một số sửa chữa cục bộ có thể được thực hiện tự động trong MolProbity và tất cả các chẩn đoán đều được trình bày dưới dạng biểu đồ và đồ họa giúp hướng dẫn việc xây dựng lại thủ công. Kỹ thuật tinh thể X-quang cung cấp một lượng lớn dữ liệu phân tử quan trọng sinh học dưới dạng cấu trúc ba chiều nguyên tử của protein, axit nucleic và các phức hợp ngày càng lớn ở nhiều hình thức và trạng thái khác nhau. Những tiến bộ trong tự động hóa, từ tinh thể hóa đến thu thập dữ liệu, từ phân pha đến xây dựng mô hình và tinh chỉnh, đã làm cho việc giải cấu trúc bằng cách sử dụng tinh thể học trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, mặc dù có những cải tiến này, các lỗi cục bộ có thể ảnh hưởng đến việc giải thích sinh học vẫn phổ biến ở độ phân giải thấp và thậm chí các cấu trúc độ phân giải cao hầu như đều chứa ít nhất một vài lỗi cục bộ như các điểm ngoại lệ Ramachandran, các chuỗi bên protein nhánh bị đảo ngược và các cấu trúc đường không chính xác. Việc có những phương pháp dễ dàng và đáng tin cậy để chẩn đoán và sửa chữa các loại lỗi này trong cấu trúc là rất quan trọng cho cả nhà tinh thể học và người sử dụng cuối. MolProbity là sự đóng góp của các tác giả nhằm giúp giải quyết vấn đề này, và bài báo này đánh giá khả năng chung của nó, báo cáo về các cải tiến và cách sử dụng gần đây, và đưa ra bằng chứng rằng các cải tiến thu được hiện đang ảnh hưởng tích cực đến cơ sở dữ liệu toàn cầu.

Nghiên Cứu Giai Đoạn III về Sự Kết Hợp Của Pemetrexed Với Cisplatin So Với Cisplatin Đơn Lẻ ở Bệnh Nhân Ung Thư Màng Phổi Ác Tính Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 21 Số 14 - Trang 2636-2644 - 2003

Mục tiêu: Bệnh nhân bị ung thư màng phổi ác tính, một loại ung thư tiến triển nhanh với thời gian sống trung bình từ 6 đến 9 tháng, trước đây đã có phản ứng kém với hóa trị. Chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm giai đoạn III để xác định liệu việc điều trị bằng pemetrexed và cisplatin có mang lại thời gian sống vượt trội so với chỉ dùng cisplatin hay không.

Phương pháp và Đối tượng: Những bệnh nhân chưa từng hóa trị và không đủ điều kiện phẫu thuật chữa bệnh được phân ngẫu nhiên để nhận pemetrexed 500 mg/m2 và cisplatin 75 mg/m2 vào ngày 1, hoặc chỉ dùng cisplatin 75 mg/m2 vào ngày 1. Cả hai phác đồ được truyền tĩnh mạch và lặp lại sau mỗi 21 ngày.

Kết quả: Tổng cộng 456 bệnh nhân được phân nhóm: 226 nhận pemetrexed và cisplatin, 222 chỉ nhận cisplatin, và tám người không hề nhận trị liệu. Thời gian sống trung bình ở nhánh pemetrexed/cisplatin là 12,1 tháng so với 9,3 tháng ở nhóm đối chứng (P = .020, kiểm định log-rank hai mặt). Tỷ lệ nguy cơ tử vong ở nhóm pemetrexed/cisplatin so với nhóm đối chứng là 0,77. Thời gian tiến triển trung bình trong nhánh pemetrexed/cisplatin dài hơn đáng kể: 5,7 tháng so với 3,9 tháng (P = .001). Tỷ lệ đáp ứng là 41,3% ở nhánh pemetrexed/cisplatin so với 16,7% ở nhóm đối chứng (P < .0001). Sau khi 117 bệnh nhân đã tham gia, axit folic và vitamin B12 được thêm vào để giảm sự độc hại, dẫn tới việc giảm độc tính đáng kể ở nhóm pemetrexed/cisplatin.

Kết luận: Việc điều trị bằng pemetrexed cộng với cisplatin và bổ sung vitamin đã mang lại thời gian sống, thời gian đến khi tiến triển, và tỷ lệ đáp ứng vượt trội so với chỉ dùng cisplatin đơn lẻ ở bệnh nhân ung thư màng phổi ác tính. Việc thêm axit folic và vitamin B12 đã giảm đáng kể độc tính mà không ảnh hưởng bất lợi tới thời gian sống.

#ung thư màng phổi ác tính #pemetrexed #cisplatin #hóa trị #giai đoạn III #tỷ lệ sống #tỷ lệ đáp ứng #độc tính #axit folic #vitamin B12.
Thuộc tính điện của các màng silicon đa tinh thể Dịch bởi AI
Journal of Applied Physics - Tập 46 Số 12 - Trang 5247-5254 - 1975

Liều lượng boron từ 1×10¹²–5×10¹⁵/cm² được cấy vào các màng polysilicon dày 1 μm ở mức 60 keV. Sau khi nung ở 1100°C trong 30 phút, các phép đo Hall và điện trở được thực hiện ở khoảng nhiệt độ từ −50–250°C. Kết quả cho thấy Hall mobility có mức tối thiểu vào khoảng 2×10¹⁸/cm³ với nồng độ pha tạp. Năng lượng kích hoạt điện được tìm thấy xấp xỉ một nửa giá trị khe năng lượng của silicon đơn tinh thể cho các mẫu pha tạp nhẹ và giảm xuống dưới 0,025 eV ở mức pha tạp 1×10¹⁹/cm³. Nồng độ hạt dẫn rất nhỏ ở mức pha tạp dưới 5×10¹⁷/cm³ và tăng nhanh với sự gia tăng nồng độ pha tạp. Tại mức pha tạp 1×10¹⁹/cm³, nồng độ hạt dẫn đạt khoảng 90% nồng độ pha tạp. Một mô hình ranh giới hạt có bao gồm các trạng thái bắt giữ đã được đề xuất. Nồng độ và độ di động của hạt dẫn theo nồng độ pha tạp và tính di động cùng điện trở theo nhiệt độ được tính toán từ mô hình. Các kết quả lý thuyết và thực nghiệm được so sánh, và thấy rằng mật độ trạng thái bắt giữ tại ranh giới hạt là 3,34×10¹²/cm² nằm tại 0,37 eV phía trên rìa băng hóa trị.

#polysilicon films #boron implantation #electrical properties #Hall mobility #carrier concentration #grain-boundary model #trapping states #annealing conditions
Nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên Giai đoạn II về Hiệu quả và An toàn của Trastuzumab kết hợp với Docetaxel ở bệnh nhân ung thư vú di căn thụ thể HER2 dương tính được điều trị đầu tiên: Nhóm Nghiên cứu M77001 Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 23 Số 19 - Trang 4265-4274 - 2005
Mục đích

Nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm này so sánh trastuzumab kết hợp với docetaxel với đơn trị liệu docetaxel trong điều trị đầu tiên cho bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì người loại 2 (HER2) dương tính.

Bệnh nhân và Phương pháp

Các bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên để nhận 6 chu kỳ docetaxel 100 mg/m^2 mỗi 3 tuần, có hoặc không có trastuzumab liều 4 mg/kg theo sau là 2 mg/kg hàng tuần cho đến khi bệnh tiến triển.

Kết quả

Tổng cộng 186 bệnh nhân đã nhận ít nhất một liều của thuốc thử nghiệm. Trastuzumab cùng với docetaxel vượt trội đáng kể so với docetaxel đơn trị liệu về tỷ lệ đáp ứng tổng thể (61% so với 34%; P = 0.0002), sống sót tổng thể (trung vị, 31.2 tháng so với 22.7 tháng; P = 0.0325), thời gian tiến triển bệnh (trung vị, 11.7 tháng so với 6.1 tháng; P = 0.0001), thời gian thất bại điều trị (trung vị, 9.8 tháng so với 5.3 tháng; P = 0.0001), và thời gian đáp ứng (trung vị, 11.7 tháng so với 5.7 tháng; P = 0.009). Không có sự khác biệt nhiều về số lượng và mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ giữa hai nhóm. Giảm bạch cầu trung tính độ 3 đến 4 phổ biến hơn ở nhóm kết hợp (32%) so với nhóm chỉ dùng docetaxel (22%), và tỷ lệ nhiễm trung tính có sốt hơi cao hơn trong nhóm kết hợp (23% so với 17%). Một bệnh nhân trong nhóm kết hợp đã gặp phải suy tim có triệu chứng (1%). Một bệnh nhân khác gặp suy tim có triệu chứng 5 tháng sau khi ngừng trastuzumab do tiến triển bệnh, trong khi đang điều trị bằng anthracycline thử nghiệm trong 4 tháng.

Kết luận

Trastuzumab kết hợp với docetaxel vượt trội hơn so với đơn trị liệu docetaxel trong điều trị đầu tiên ở bệnh nhân ung thư vú di căn thụ thể HER2 dương tính về tỷ lệ sống sót tổng thể, tỷ lệ đáp ứng, thời gian đáp ứng, thời gian tiến triển bệnh và thời gian thất bại điều trị, mà không tăng thêm độc tính đáng kể.

#Trastuzumab #docetaxel #ung thư vú di căn #HER2 dương tính #nghiên cứu ngẫu nhiên #tỷ lệ sống sót #tỷ lệ đáp ứng #tiến triển bệnh #độc tính.
Ảnh hưởng của dung môi/ kỹ thuật chiết xuất đến hoạt tính chống oxy hóa của một số chiết xuất từ cây thuốc chọn lọc Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 14 Số 6 - Trang 2167-2180

Ảnh hưởng của bốn dung môi chiết xuất [etanol tuyệt đối, metanol tuyệt đối, etanol trong nước (etanol: nước, 80:20 v/v) và metanol trong nước (metanol: nước, 80:20 v/v)] và hai kỹ thuật chiết xuất (khuấy trộn và hồi lưu) đến hoạt tính chống oxy hóa của các chiết xuất từ vỏ cây Azadirachta indica, Acacia nilotica, Eugenia jambolana, Terminalia arjuna, lá và rễ của Moringa oleifera, quả của Ficus religiosa, và lá của Aloe barbadensis đã được nghiên cứu. Các nguyên liệu thực vật được thử nghiệm chứa lượng phenolic tổng cộng đáng kể (0.31-16.5 g GAE /100g DW), flavonoid tổng cộng (2.63-8.66 g CE/100g DW); khả năng khử (1.36-2.91) tại nồng độ chiết xuất 10 mg/mL, khả năng bắt giữ DPPH (37.2-86.6%), và phần trăm ức chế axit linoleic (66.0-90.6%). Thông thường, sản lượng chiết xuất, hàm lượng phenolic và hoạt tính chống oxy hóa của vật liệu thực vật cao hơn khi sử dụng dung môi hữu cơ trong nước, so với các dung môi hữu cơ tuyệt đối tương ứng. Mặc dù sản lượng chiết xuất cao hơn được thu được bằng kỹ thuật chiết xuất hồi lưu, nhưng nói chung, hàm lượng phenolic tổng thể cao hơn và hoạt tính chống oxy hóa tốt hơn được tìm thấy trong các chiết xuất được chuẩn bị bằng cách sử dụng máy khuấy.

#hoạt tính chống oxy hóa #kỹ thuật chiết xuất #dung môi chiết xuất #cây thuốc #phenolic #flavonoid
So sánh tỷ lệ tuân thủ thuốc giữa bệnh nhân mắc bảy tình trạng y tế khác nhau Dịch bởi AI
Pharmacotherapy - Tập 28 Số 4 - Trang 437-443 - 2008

Mục tiêu nghiên cứu. So sánh tỷ lệ tuân thủ thuốc giữa các bệnh nhân bị bệnh gout, tăng cholesterol máu, tăng huyết áp, suy giáp, loãng xương, rối loạn co giật và bệnh tiểu đường típ 2 bằng cách sử dụng một phương pháp tiêu chuẩn hóa.

Thiết kế. Nghiên cứu dọc.

Nguồn dữ liệu. Dữ liệu yêu cầu bảo hiểm y tế từ năm 2001–2004.

Bệnh nhân. Tổng cộng 706.032 người lớn từ 18 tuổi trở lên có ít nhất một trong bảy tình trạng y tế và đã sử dụng liệu pháp thuốc cho tình trạng đó.

#tuân thủ thuốc #bệnh gout #tăng huyết áp #suy giáp #loãng xương #bệnh tiểu đường típ 2
Swollenin, một protein Trichoderma reesei có trình tự tương tự như các expansin thực vật, thể hiện hoạt tính phá vỡ trên các vật liệu chứa cellulose Dịch bởi AI
FEBS Journal - Tập 269 Số 17 - Trang 4202-4211 - 2002

Các protein trong thành tế bào thực vật được gọi là expansin được cho là có khả năng phá vỡ liên kết hydro giữa các polysaccharide trong thành tế bào mà không phân hủy chúng. Chúng tôi mô tả ở đây một gen mới với sự tương đồng về trình tự với các expansin thực vật, được phân lập từ nấm phân giải cellulose Trichoderma reesei. Protein được gọi là swollenin có một miền liên kết cellulose kiểu nấm ở đầu N, được kết nối bởi một vùng kết nối với miền tương tự expansin. Protein này cũng chứa các vùng tương tự với các bản lặp fibronectin loại III có ở động vật có vú, lần đầu tiên được tìm thấy trong một protein nấm. Gen swollenin được điều hòa theo cách tương tự như các gen cellulase của T. reesei. Vai trò sinh học của SWOI đã được nghiên cứu bằng cách phá hủy gen swo1 từ T. reesei. Sự phá hủy này không có tác động rõ rệt đến tỷ lệ sinh trưởng trên glucose hay trên các nguồn carbon cellulose khác nhau. Phân tích lai Southern không chặt chẽ của DNA gen Trichoderma với swo1 cho thấy sự hiện diện của các gen tương tự swollenin khác, có thể thay thế cho sự mất mát của SWOI trong mẫu phá hủy. Gen swollenin đã được biểu hiện trong men và Aspergillus niger var. awamori. Các thí nghiệm hoạt tính trên sợi bông và giấy lọc được thực hiện với dịch chiết men chứa SWOI tập trung, đã phá hủy cấu trúc của các sợi bông mà không tạo ra lượng đường khử có thể phát hiện. Nó cũng làm suy yếu giấy lọc như được đánh giá bởi một thiết bị đo độ kéo dài. Protein SWOI đã được tinh sạch từ dịch chiết văn hóa của A. niger var. awamori và được sử dụng trong một thí nghiệm hoạt tính với thành tế bào Valonia. Nó đã phá hủy cấu trúc của các thành tế bào mà không sản xuất được lượng đường khử có thể phát hiện.

Tỷ lệ viêm ruột thừa cấp tính không thủng và thủng: Phân tích theo độ tuổi và giới tính Dịch bởi AI
World Journal of Surgery - - 1997
Tóm tắt

Nghiên cứu prospectiv này được thực hiện để điều tra đặc điểm dịch tễ học liên quan đến tỷ lệ mắc theo độ tuổi và giới tính ở bệnh nhân viêm ruột thừa thủng và không thủng. Dân số nghiên cứu bao gồm 1486 bệnh nhân liên tiếp đã trải qua phẫu thuật cắt ruột thừa do nghi ngờ viêm ruột thừa cấp tính trong khoảng thời gian từ năm 1989 đến 1993. Hai nhóm bệnh nhân [n= 544 (37%)] đã được phân tích liên quan đến thời gian triệu chứng trước khi nhập viện và thời gian quan sát tại bệnh viện. Tỷ lệ mắc viêm ruột thừa cấp tính thô là 86 trên 100.000 trong một năm. Mặc dù tỷ lệ viêm ruột thừa không thủng cao nhất ở thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ (từ 13 đến 40 tuổi), viêm ruột thừa thủng xảy ra với tỷ lệ gần giống nhau ở tất cả các nhóm tuổi và giới tính. Độ chính xác chẩn đoán là 76%. Viêm ruột thừa thủng xuất hiện ở 19%, với tỷ lệ cao hơn ở trẻ nhỏ và người cao tuổi, không phân biệt giới tính. Độ chính xác chẩn đoán cao không liên quan đến tỷ lệ thủng tăng lên. Ở trẻ nhỏ và người cao tuổi, độ chính xác chẩn đoán thấp và tỷ lệ thủng cao. Bệnh nhân bị thủng có thời gian triệu chứng và thời gian quan sát tại bệnh viện kéo dài đáng kể hơn so với bệnh nhân bị viêm ruột thừa không thủng. Viêm ruột thừa thủng thể hiện mẫu tỷ lệ khác biệt so với viêm ruột thừa không thủng và liên quan đến thời gian triệu chứng và thời gian quan sát tại bệnh viện kéo dài đáng kể, có thể là do các yếu tố liên quan đến bệnh nhân. Chúng tôi gợi ý rằng quan sát này cần được chú ý trong việc chẩn đoán lâm sàng và quyết định điều trị đối với bệnh nhân nghi ngờ viêm ruột thừa cấp tính.

Cách Thức Các Cửa Hàng 3D Thực Tế Ảo Có Thể Hình Thành Quyết Định Mua Sắm của Người Tiêu Dùng: Vai Trò Của Tính Thông Tin Và Tính Chơi Dịch bởi AI
Journal of Interactive Marketing - Tập 49 Số 1 - Trang 70-85 - 2020

Sự gia tăng gần đây của phần cứng thực tế ảo (VR) cho người tiêu dùng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong lĩnh vực tiếp thị trực tuyến: điều gì làm cho VR 3D thông tin và thú vị hơn so với các phương tiện 2D thông thường như hình ảnh tĩnh và video, và nó ảnh hưởng đến quy trình ra quyết định mua sắm trực tuyến như thế nào. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chủ yếu tập trung vào ba đặc điểm giao diện—tính tương tác, tín hiệu không gian-hình ảnh, và chất lượng đồ họa. Chúng tôi khám phá cách mỗi đặc điểm giao diện này nâng cao tính thú vị và tính thông tin của giao diện mua sắm và ảnh hưởng tiếp theo đến đánh giá sản phẩm và ý định mua. Kết quả của nghiên cứu cung cấp hai hiểu biết có ý nghĩa. Đầu tiên, tính tương tác và tín hiệu không gian-hình ảnh nâng cao đáng kể tính thông tin và tính vui tươi mà người tiêu dùng cảm nhận; tuy nhiên, vai trò của chất lượng đồ họa được phát hiện là quan trọng hơn đối với các màn hình 2D so với môi trường VR 3D. Thứ hai, tính thông tin và tính vui tươi ảnh hưởng đến quy trình ra quyết định mua sắm theo những cách khác nhau. Cụ thể hơn, một giao diện vui tươi có thể nâng cao sự ưa thích của người tiêu dùng đối với các lợi ích sản phẩm hedonistic (ví dụ: thiết kế phong cách và hấp dẫn), trong khi tính thông tin là biến giải thích quan trọng hơn cho ý định mua hàng tiếp theo. Chúng tôi thảo luận về những đóng góp lý thuyết và những hiểu biết quản lý mà nghiên cứu cung cấp cho các nhà bán lẻ và nhà thiết kế trực tuyến.

#thực tế ảo #tính thông tin #tính vui tươi #quyết định mua sắm #tiếp thị trực tuyến
Ảnh hưởng của đường lên quá trình ép hạt ngô: I. Vai trò của sự chuyển tiếp thủy tinh trong việc xác định mật độ và hình dạng sản phẩm Dịch bởi AI
International Journal of Food Science and Technology - Tập 31 Số 1 - Trang 55-65 - 1996

Ảnh hưởng của các loại đường (sucrose, glucose, fructose, xylose, lactose và maltose) lên sự mở rộng theo mặt cắt (tâm) và chiều dài cũng như sự co lại sau đó của các sản phẩm ép từ ngô đã được nghiên cứu. Các loại đường làm giảm sự mở rộng theo mặt cắt, trong đó monosaccharides giảm nhiều hơn disaccharides. Sự giảm mở rộng mặt cắt và tăng mật độ cùng với hàm lượng đường được giải thích là sự kết hợp của việc giảm sự phát triển bọt khí và tăng mức độ co lại khi ra khỏi khuôn ép. Việc giảm sự phát triển bọt khí được xem là kết quả của sự giảm lực đẩy nhiệt độ cho sự phát triển bọt khí và giảm sự kéo dài của màng bọt trước khi vỡ do sự chuyển đổi tinh bột giảm khi hàm lượng đường tăng lên. Sự co lại dừng lại khi nhiệt độ giảm xuống khoảng Tg + 30°C, trong đó Tg là nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh. Việc bổ sung đường và nước sẽ làm giảm nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh (Tg) của hỗn hợp nóng chảy và do đó tăng khoảng nhiệt độ mà sản phẩm ép sẽ co lại. Lực đẩy cho sự co lại là việc giải phóng năng lượng đàn hồi tích trữ sau khi bọt vỡ và sự chênh lệch áp suất giữa bên trong các tế bào kín trong sản phẩm và áp suất khí quyển.

#đường #quá trình ép #ngô #chuyển tiếp thủy tinh #mật độ sản phẩm #hình dạng sản phẩm
Tổng số: 345   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10